(LĐ) - Cộng đồng 40.000 người Nguồn vẫn tồn tại và sinh sôi từ bao đời nay trên mảnh đất Cơ Sa - Kim Linh xưa (nay là huyện rẻo cao Minh Hoá, Quảng Bình), bất chấp những cuộc tranh luận nảy lửa về tộc danh và một giai đoạn lịch sử bị quên lãng.
Đến nay, người Nguồn vẫn là một cộng đồng bí ẩn dù “(...) vẫn còn đó tiếng nói bền vững, các sinh hoạt văn hoá riêng biệt và các giá trị dân gian khá phong phú (...)”.
Người Nguồn - truyền kỳ và sự thật
Những tranh cãi quanh tộc danh của người Nguồn đến nay vẫn là một câu chuyện chưa có hồi kết. Đã có lúc, “người Nguồn” được hiểu đơn giản là một cộng đồng người Kinh ở đầu nguồn nước, “tiếng Nguồn” được coi là một dạng phương ngữ của người Kinh ở Bắc Trung Bộ và “văn hoá Nguồn” cũng bị xếp vào một dạng khảo dị của văn hoá người Kinh. Cho đến những năm 1990, sau những cuốn sách đầu tiên của tiến sĩ Trần Chí Dõi và cố tiến sĩ Võ Xuân Trang viết cùng nhà nghiên cứu dân gian Đinh Thanh Dự (một người Nguồn chính hiệu!), thì giới khoa học nước nhà mới thực sự chú ý tới cộng đồng người có tên gọi là “Nguồn” này như một tộc người.
Những cuốn sách và bản thảo liên tiếp đoạt giải của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, kết quả của hơn 20 năm điền dã, ghi chép và nghiên cứu của Đinh Thanh Dự cùng với nhiều ý kiến trái chiều cho rằng người Nguồn thực ra là người Thổ từ Nghệ An, Thanh Hoá di cư khiến cuộc tranh luận về tộc danh người Nguồn thực sự nóng bỏng trên diễn đàn văn hoá.
Năm 2004, sau một cuộc hội thảo không thống nhất được quan điểm về tộc danh người Nguồn, huyện Minh Hoá đã tổ chức một chương trình điền dã đến người Thổ ở Nghệ An. Tiếc là cuộc điền dã chỉ kéo dài... một buổi, tiếp xúc với hai gia đình, nhưng sau đó huyện này đã vội vã kết luận rằng người Nguồn chính là người Thổ. Chuyến “cưỡi ngựa xem hoa” đó không những không thuyết phục được giới nghiên cứu dân tộc học, mà còn trở thành một giai thoại cười ra nước mắt về phương pháp luận nghiên cứu.
Cho đến nay, vẫn chưa tìm thấy sử liệu nào nhắc đến nguồn gốc người Nguồn. Chỉ biết thời Trịnh - Nguyễn, đất Minh Hoá - nơi người Nguồn cư trú ngày nay gồm hai nguyên Cơ Sa và Kim Linh, thuộc châu Bố Chính, trấn Nghệ An. Và theo Đại Nam nhất thống chí, đến thế kỷ XIX đất Cơ Sa, Kim Linh đã có dân cư ở nhiều thôn như Quy Đạt, Ba Nương, Kim Bảng..., những cái tên tồn tại đến ngày nay.
Vùng Kim Linh xưa (nay là xã Tân Hoá) - nơi tương truyền có tên ác bá dùng gỗ lim chặn dòng rục Pôộc thành biển, xưng vương và thu thuế nặng trước khi bị người Nguồn lật đổ.
Theo nhà nghiên cứu Đinh Thanh Dự - người đã có gần 30 năm nghiên cứu về người Nguồn: Từ thời nguyên thuỷ, trên các hang đá vôi, triền núi của vùng đất này đã có người Cọi sinh sống, sau đó thuỷ tổ của người Nguồn (chưa rõ gốc tích) đến cộng sinh, cộng hôn khiến người Cọi bị phân hoá thành các tộc người Rục, Mày, Sách và Nguồn ngày nay(?). Cộng đồng người Nguồn sống ở “ngoài làng”, ngày càng lớn mạnh và lấn át những tộc người sống trong hang đá, thung lũng như Rục, Sách, Mày. Giả thiết này có cơ sở từ rất nhiều câu chuyện và ca dao dân gian được truyền miệng tới nay như chuyện “Người Rục và người Mày là anh em một nhà”, hay câu ca dao của người Nguồn: “Mạ khinh con cọi ở hung/ Thiếng ăn, thiếng chốn cúng chung ngoài làng” (tạm dịch là: Chớ khinh con Cọi ở hung (thung lũng)/ Tiếng ăn, tiếng nói cùng chung ngoài làng).
Giả thiết về sự xuất hiện của người Nguồn càng được củng cố khi trước đó, năm 1926 nhà khảo cổ học người Pháp Mađơlen Côlani khai quật được nhiều di chỉ văn hoá trong các hang động vùng Cơ Sa - Kim Linh và khẳng định ở đây tồn tại một nền văn hoá tiền sử trên dưới 1 vạn năm. Trong đó, đoàn khảo cổ phát hiện trong các hang tiền sử có nhiều vỏ ốc vặn và gọi những người tiền sử này là “những người ăn ốc”. Điều trùng hợp là đến nay, món “ôốc tực” vẫn là một món ăn truyền thống thường xuất hiện trong các mâm cỗ của người Nguồn.
Mảnh đất Cơ Sa - Kim Linh cũng gắn liền với nhiều câu chuyện dân gian Nguồn mà Đinh Thanh Dự là người đầu tiên và duy nhất ghi chép tương đối đầy đủ, trung thành sau 20 năm điền dã khắp đất Minh Hoá. Điển hình là câu chuyện “Ông Đùng và thằng Sắt” đội trời lên cao, mang lại cuộc sống ấm no cho người Nguồn, hay truyền thuyết “Vua non” nói về một tên ác tặc chặn rục Pôộc (vùng Tân Hoá ngày nay) thành biển, xưng vua và bóc lột người Nguồn vùng Cơ Sa - Kim Linh suốt 3 năm liền.
Những căn cứ mang “hình dáng lịch sử” nói trên khiến những người kêu gọi công nhận người Nguồn là một tộc người có thêm niềm tin. Ngược lại, việc thiếu tư liệu “chính sử” khiến những người phản bác có cớ để nói rằng người Nguồn chỉ là một bộ phận của người Thổ, người Kinh. Những sự thật và truyền kỳ cứ đan cài vào nhau, khiến bao thế hệ người Nguồn dù ý thức mình là “người Nguồn, nói tiếng Nguồn, đại diện văn hoá Nguồn” luôn đau đáu đi tìm hình hài tiên tổ.
Ngả mũ trước một nền văn hoá
Có hai điều khiến người ta ngả mũ trước kho tàng văn hoá hằn đậm bản sắc của người Nguồn. Thứ nhất, cái vệt đất rẻo cao miền biên viễn phía Tây này là ngã ba giao thoa nhiều nền văn hoá: Việt - Chứt, Môn Khmer, Bắc thuộc và chứng kiến nhiều biến cố lịch sử thời phong kiến Việt Nam, nhưng vẫn giữ được một kho tàng văn hoá từ văn học dân gian, phong tục, lễ hội, y học dân gian đặc sắc và khu biệt. Thứ hai, câu chuyện định danh người Nguồn chưa tìm được tiếng nói chung, nhưng dường như người Nguồn không đánh mất ý thức “tôi là người Nguồn”, không bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh luận nhiều kỳ của các nhà dân tộc học và những mệnh lệnh hành chính. Nói như nhà văn Hữu Phương - cựu Chủ tịch Hội VHNT Quảng Bình: “Việc cộng đồng người Nguồn có phải là một dân tộc thiểu số hay không là quyền hạn và trách nhiệm của các nhà dân tộc học và các cấp có thẩm quyền. Nhưng tầng văn hoá đặc sắc của người Nguồn thì vẫn còn đó. Vẫn còn đó tiếng nói bền vững, các sinh hoạt văn hoá riêng biệt và các giá trị văn nghệ dân gian khá phong phú cần được tôn trọng, gìn giữ và phát huy”.
Thiếu nữ Nguồn thi làm “cơm pồi” - một món ăn truyền thống làm từ bột ngô, sắn, gạo, mật ong - trong hội Rằm tháng ba. Ảnh: H.B
Sau hơn 20 năm nghiên cứu, “pho sử sống” của người Nguồn Đinh Thanh Dự đã tìm lại được 26 truyện dân gian, hàng trăm câu tục ngữ, ca dao, dân ca, đồng dao và câu đố dân gian cùng nhiều điệu hát sắc bùa, hát nhà trò, đúm, hò thuốc cá đặc trưng của cuộc sống săn bắt, hái lượm, thuốc cá, bẫy chim và phát nương làm rẫy của người Nguồn. Bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào danh phận người Nguồn, Đinh Thanh Dự cùng với nhiều nhà khoa học đã làm sống lại một bức tranh văn hoá đầy đủ của người Nguồn từ những phong tục “giỗ sống”, tục “cúng ma”, tục “ở rể”, tín ngưỡng “cúng Pụt”, hàng chục món ăn truyền thống và những bài thuốc cây cỏ chữa bệnh độc nhất vô nhị của cộng đồng người bí ẩn này.
Sẽ là quá sức để giới thiệu một nền văn hoá đồ sộ trong một bài báo, chỉ xin nói đến một lễ hội đặc trưng, xuyên thấu văn hoá người Nguồn - hội Rằm tháng ba. Với người Nguồn, hội Rằm như một ngày Tết lớn của năm, mỗi nhà đều có mâm cỗ “cúng Pụt”, cầu mưa thuận gió hòa. Phần lễ có lễ phúng tại thác Pụt và lễ cầu đảo tại thác Rèm. Phần hội có Hội chợ Sạt - nơi cha mẹ cho con cái một ít tiền để đến chợ ăn uống, mua quần áo, đồ chơi và tham gia các trò chơi dân gian.
Thanh niên nam, nữ thì tổ chức hát đúm, hát sắc bùa, nhà trò, múa tiên... và không thể thiếu hội thi chế biến “cơm pồi” và các món ăn truyền thống của người Nguồn. Có thể nói, lễ và hội Rằm tháng ba là sự tái hiện đầy đủ một bức tranh văn hoá dân gian điển hình của người Nguồn. Chẳng thế mà người Nguồn vẫn nhắc nhở bằng câu ca: “Chẳng thà đau ốm mà nằm/ Không mà bỏ chợ hội Rằm tháng ba”.
Dẫu cuộc kiếm tìm danh phận vẫn chưa đến đích, cộng đồng 4 vạn người Nguồn vẫn sinh tồn và phát triển với đầy đủ tiếng nói, kho tàng văn hoá dân gian đặc trưng và ý thức tộc người mãnh liệt. Người Nguồn vẫn đau đáu chờ đợi cái ngày được xưng danh “mình là người Nguồn”, ngẩng cao đầu với cộng đồng các dân tộc anh em trên mảnh đất hình chữ S nghìn năm văn hiến này.
HÀ BÌNH Báo lao động